Lòng hiếu thảo của chư tổ Phật giáo Tây Ninh
Chùa Linh Sơn Tiên Thạch - nơi lưu dấu lòng hiếu thảo của chư tổ Phật giáo Tây Ninh
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo đồng hành cùng dân tộc đã lưu dấu nhiều tấm gương về lòng hiếu thảo của chư tổ nơi vùng đất tỉnh Tây Ninh.
Lần giở tiểu sử của Hòa thượng Đạo Trung - Thiện Hiếu, tổ là bậc long tượng thiền môn, vị danh tăng của Phật giáo Tây Ninh và cả Nam Bộ. Với việc khai sơn ngôi chùa Linh Sơn Tiên Thạch trên núi Bà Đen từ thế kỷ XVIII, tổ đã đặt nền tảng ban đầu cho việc phát triển Phật giáo và dòng truyền thừa Lâm Tế Liễu Quán (Tế Thượng) ở Tây Ninh.
Xưa nay kể nhiều về tổ Đạo Trung - Thiện Hiếu qua sự tích “Tổ Đỉa”, bên cạnh đó còn biết đến ngài là người con chí hiếu. Khi ngài rời quê xuất gia tu học, mẹ ngài vì thương nhớ con, được tin ngài hành đạo tại vùng đất Thới Hòa, cụ bà tìm đến. Tổ biết đó là mẹ mình nên nhận và cho công quả nhưng vì sợ mẹ biết tổ là con thì sẽ có thái độ xem thường tăng chúng trong lúc công quả nên tổ không cho biết mình là con.
Trong thời gian cụ ở chùa Long Hưng, tổ thường dặn dò tăng chúng chăm sóc cụ bà thật chu đáo khi tổ có phật sự phải vắng mặt ở chùa. Còn những lúc ở chùa, vào lúc chạng vạng và đại chúng chỉ tịnh ngài âm thầm giặt đồ cho mẹ mình…
Đến khi cụ bà lâm chung, tổ mới công bố trước đại chúng đây là mẹ của mình và đứng ra lo an táng trong khuôn viên chùa. Hiện nay, mộ cụ bà được chôn cất gần tháp tổ tại chùa Long Hưng (nay thuộc TP.Hồ Chí Minh).
Về đến cổ tự Phước Lưu xứ Trảng Bàng, mọi người còn nhắc nhớ nhau tấm lòng hiếu thảo của Hòa thượng Trừng Lực - Chơn Hữu, vị tổ khai sơn chùa Phước Lưu và phát triển ngôi chùa thành trung tâm ứng phú đạo tràng vùng Tây Ninh.
Tổ đường nơi thờ xá lợi Hòa thượng Trừng Lực tại chùa Phước Lưu (Trảng Bàng)
Thuở xưa, khi chùa Phước Lưu còn là am Bà Đồng, có vị ni cô lớn tuổi tên Trần Thị Nên, pháp danh Chơn Tăng tự Tiên Cốt là người vùng Gò Đen. Bà đi phiêu lưu lục tỉnh, sau dừng chân ở Trảng Bàng và đến thảo am cùng tu tập, hành y chữa bệnh với bà Đồng.
Người con lớn của bà tên Mai Văn Lực (tức Hòa thượng Trừng Lực), người con thứ hai tên Mai Văn Đồ và người con gái út tên Mai Thị Thiện cùng đến chùa tu học và phụng dưỡng mẹ, những người con của bà là những người có công lớn trong việc phát triển ngôi chùa về sau.
Sự việc được nhắc nhiều nhất là vào năm Kỷ Dậu (1909), ni cô Chơn Tăng lâm bệnh nặng, Hòa thượng Trừng Lực đã cắt ngón tay lấy máu làm thuốc dẫn hòa thuốc chữa khỏi bệnh cho mẹ, tấm lòng hiếu thảo của tổ ngày sau vẫn còn được ca tụng, xá lợi xương ngón tay của ngài hiện còn thờ ở tổ đường chùa Phước Lưu.
Vào giờ Thìn ngày mùng 3 tháng 11 năm Kỷ Dậu (1909), ni cô Chơn Tăng viên tịch. Sau khi lo hậu sự chu toàn cho mẹ, Hòa thượng Trừng Lực sắp xếp việc chùa, truyền người kế vị, tấn phong cho trưởng tử pháp hiệu Phổ Chiếu húy Tâm Hữu trụ trì chùa Phước Lưu, Hòa thượng đến vùng núi Cậu (trước thuộc địa phận tỉnh Tây Ninh, nay thuộc TP.Hồ Chí Minh) khai hoang nhưng do bị bệnh sốt rét rừng (hay còn gọi là bệnh chói nước) nên tổ trở về chùa Linh Sơn Tiên Thạch y theo giáo huấn của tôn sư Thanh Thọ - Phước Chí cùng chư huynh đệ phát huy chùa tổ Linh Sơn Tiên Thạch hoằng truyền Phật pháp.
Ngày 11 tháng 11 năm Canh Tuất (1910), Hòa thượng Trừng Lực viên tịch tại chùa Linh Sơn Tiên Thạch và nhập tháp tại chân núi Bà Đen cạnh bên chùa Linh Sơn Phước Trung.
Nhắc đến Hòa thượng núi Điện Bà thì nhiều người sẽ nhớ ngay đến Hòa thượng Tâm Hòa - Chánh Khâm, tổ là bậc danh tăng của Phật giáo Tây Ninh, đạo hiệu của ngài được Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh chọn làm tôn hiệu cho 10 lần Đại Giới đàn ở Tây Ninh.
Trong quyển Ngọn đuốc cửa thiền của Phan Thức Duy, cho biết Hòa thượng Tâm Hòa sinh trưởng tại làng An Lái (Nhựt Tảo), tỉnh Tân An. Tổ là người con chí hiếu. Tuổi thơ ấu, tổ ở với mẹ, từ năm 12 tuổi đã đi bắt tôm, cá đem về chi dụng việc nhà, còn dư thì đi bán đỡ đần phụ mẹ.
Năm lên 17 tuổi, trong nhà có dư chút ít, ngài mua một chiếc ghe xuống miệt Rừng Sác (Lý Nhơn) đốn củi. Lúc bấy giờ, khu rừng còn hoang vu, nhiều thú dữ, ít người dám vào. Về sau, ngài lo chu toàn mọi việc cho mẹ và trong nhà rồi quyết chí xuất gia, đến chùa Linh Sơn Tiên Thạch (núi Bà Đen) cầu pháp học đạo. Hằng năm, Hòa thượng Tâm Hòa đều xin thầy về quê thăm mẹ, làm tròn đạo hiếu.
Và còn rất nhiều tấm gương hiếu thảo trong đạo, ngoài đời, từ lịch sử đến hiện tại. Lòng hiếu thảo được thể hiện từ những điều đơn giản nhất như phụng thờ tổ tiên, ông bà, hiếu kính, yêu thương, biết ơn và phụng dưỡng cha mẹ qua bữa ăn đoàn viên, biết vâng lời, làm cho cha mẹ vui cười, hạnh phúc, chăm sóc sức khỏe, chia sẻ tình cảm và làm việc tốt để cha mẹ tự hào.
Với người con Phật luôn tâm niệm lời Phật dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, bởi lòng hiếu thảo là con đường tu tập và là gốc rễ của mọi đạo lý, nền tảng để đạt được giác ngộ./.
Phí Thành Phát