Chuyện xưa ở Đồng Tháp Mười
Trong một chuyến đi thực tế ở vùng Đồng Tháp Mười, được nghe cư dân nơi đây kể chuyện xưa với nhiều chi tiết độc đáo, hấp dẫn. Trong bài viết nhỏ này, xin thuật lại để quý độc giả hình dung những chuyện lao động, đời sống của bà con miệt đồng xưa...
Chài cá trên sông. Ảnh: DUY KHÔI
Những chuyện thú vị liên quan đến "đầu cơ nghiệp"
Tục ngữ "Con trâu là đầu cơ nghiệp" nhấn mạnh vai trò của con trâu trong nền nông nghiệp lúa nước xưa. Con trâu gắn bó và gần gũi với đời sống, lao động sản xuất của nông dân, nên chuyện xưa miệt đồng không thể thiếu những chi tiết thú vị liên quan đến trâu.
Để có hình ảnh "con trâu đi trước, cái cày đi sau", nông dân xưa thường có những "bí kíp" để trâu kéo cày đúng ý. Đầu tiên là tập cho trâu biết nghe lệnh "ví, thá". Ví là vào, thá là ra. Trâu của nông dân miệt đồng khi cày bừa thường được huấn luyện theo “vọng ví” đi nghịch chiều kim đồng hồ. Hai tiếng ấy là của nông dân để điều khiển đường cày theo ý muốn.
Nhắc đến trâu, không thể thiếu "nẹt trâu” - một thuật ngữ của người xưa nói về cách tạo một đường nước, trước nhỏ, sau lớn dần. Đó là cách dùng trâu kéo xuồng bằng dây theo một đường nước nhỏ tự nhiên, lâu ngày, nhiều lần, đường nước ấy rộng lớn ra, trở thành một thủy mạch giao thông nội đồng. Ở những nơi có điều kiện, các chủ ruộng cũng đồng thời là chủ trâu, vì lợi ích chung nên hẹn nhau vào một ngày nào đó đem toàn bộ số trâu của mình đến điểm tập trung, để tổ chức một cuộc đua trâu mà đường đua chính là đường nước tự nhiên (con lung lạn). Trâu ai nấy khiển, hàng trăm con chạy ầm ầm ào ào… Tất nhiên cuộc đua phải được lặp lại “năm lần bảy lượt” đường nước kia mới ngày càng sâu rộng thêm. Thế là một thủy mạch được hình thành mà không cần phải huy động đến sức người.
Đến mùa nước, nông dân sẽ mướn “len trâu”. Xưa, giá mướn người chăn một cặp trâu là 5 giạ lúa/mùa nước. Trâu lỡ bịnh chết thì cứ xẻ thịt ăn hoặc bán hay cho, tùy ý chỉ cần giữ lại cặp sừng và 1 miếng da để làm vật chứng. Chủ không thắc mắc gì cả vì nông dân đối xử và tin nhau ở tấm lòng chân thật. Mỗi gia đình thường là cả vợ chồng, con cái làm nghề len trâu chuyên nghiệp có thể lãnh từ một, hai trăm đôi trâu trong mùa nước.
Ghe và ngư cụ đánh bắt cá trên sông ở Đồng Tháp Mười. Ảnh: DUY KHÔI
Chuyện sản vật miệt đồng
Trong câu chuyện miệt đồng, thường không thể thiếu những câu truyền miệng "Con cá lóc bự sống ở đìa rất khôn". Đó là khi tát đìa mà đìa bị chìm (do mưa to kéo dài suốt đêm), cá lóc lớn rủ nhau đi trốn từng cặp bằng cách phóng lên miệng đìa, chỗ bờ thấp (có lẽ cá cảm nhận được vì nước mưa trên đồng chảy xuống đìa). Lên khỏi đìa, từng cặp cá ấy sẽ lóc tìm đến trốn trong những vũng nhỏ (đất đồng không bằng phẳng). Chúng nằm yên, có khi vài ba ngày vẫn không cựa quậy, chờ đến khi nào tát đìa xong, tức không còn nghe tiếng xôn xao, nó mới tìm đường thoát thân (thường là trở xuống đìa đã tát). Người làm đìa chuyên nghiệp tất nhiên phải khôn hơn nó, cho nên khi đìa bị chìm thì sáng lại họ tổ chức đi rảo xung quanh để bắt, toàn cá lóc bự. Lúc bắt cá lóc, dữ nhất là “cá lóc môi trề”. Để thộp cổ bọn dữ này, người bắt cá chụp ngay trên đầu và liền nhận mạnh xuống bùn cho tới “đất cái” ngay. Do quá “bất ngờ” và đất cứng quá nên cá không thể “trở tay” kịp, đành nằm yên.
Còn để giăng lưới cá rô đồng, người ta chỉ dùng “lưới mặt 5 phân” tức rất thưa, bắt được toàn cá rô mề, đều lớn bằng nhau, do đó chỉ cần đếm chứ không dùng cân. Trong việc mua bán cá ngày trước, cá nhỏ thì đong bằng giỏ. Họ thỏa thuận giá 1 giỏ cá là bao nhiêu tiền. Giỏ lớn nhứt gọi “giỏ bảy”, với nghĩa dung lượng của nó bằng bảy cái giỏ thông thường, mà giỏ thông thường dung lượng khoảng 25kg cá. Đối với cá lớn thì đếm, chứ không cân như sau này, vì thời ấy chỉ dùng loại cân nhỏ, chỉ cân được tối đa vài ký; còn cân đòn rất mắc tiền, người bình thường ít ai sắm nổi. Bà con bắt cá rô rất tài, cùng lúc dùng cả hai tay, mỗi tay bắt một con từ khoang xuồng của mình bỏ qua giỏ hoặc khoang xuồng của lái. Vừa bắt vừa đếm to lên (để mọi người dễ theo dõi, kiểm tra). Đếm được bao nhiêu thì kể gấp đôi, vì mỗi tiếng đếm là 1 cặp, 2 con. Thí dụ 160 thì hiểu là 320 con, theo đó mà tính tiền.
Chuyện bắt lươn thì công phu hơn. Khi nước mới ngập đồng chừng vài ba tấc, ra đồng đảo mắt nhìn, nếu thấy nơi nào có một chòm cỏ màu xanh mà cao hơn xung quanh, thì nông dân dùng bàn chân dò tìm loanh quanh một hồi, nếu lọt gót chân thì đó chính là hang lươn. Lúc này động tác trước nhứt của người đi bắt lươn là cúi xuống, nắm bàn tay lại mà thọc vô miệng hang, nếu vừa lọt nắm tay thì con lươn khoảng 700g, chật hơn thì nửa ký - tất nhiên hang rộng hơn thì lươn to hơn. Nếu thọt không lọt nắm tay thì lươn nhỏ, dưới nửa ký, người xưa chê nhỏ, không bắt.
Khi đã xác định hang có lươn từ nửa ký trở lên, người ta bứt một nắm cỏ quấn chặt lại, nhét xuống, chừng ba bốn tấc thì tới ngã ba, tức ngã rẽ giữa hang cắm và hang ngách. Nhét cỏ tại hang cắm (nếu không mau mau ém cỏ, lươn sẽ rút xuống trốn ở hang cắm rất sâu này, có khi sâu cả thước), rồi làm động tác tróc lưỡi. Lươn đang ở ngách vẫn nghe rõ tiếng “tróc”, tưởng tiếng kêu của con mồi, bươn bả trườn lên, lúc đó người bắt lươn hơi bung bàn tay ra, các ngón hơi co lại, sát vào nhau và đều hướng vào tâm, chờ đợi, trong tích tắc đầu con lươn sẽ chạm vào lòng bàn tay, tức khắc các đầu ngón tay liền bấu vào, lươn nhanh nhẹn tụt xuống, trơn nhớt nhưng không thể thoát được vì cái mang của nó đã bị kẹt bởi cả 5 móng tay của anh nông dân! Chỉ cần lôi lươn lên là xong.
Trâu cộ rơm. Ảnh: DUY KHÔI
Sản vật miệt đồng ngày xưa còn liên quan chuyện cưới xin. Đó là với những gia đình không dư dả, mỗi khi gả cưới, để giúp con có vốn làm ăn, cả gia đình hợp sức làm một “đường câu”. Đây là đường nước do trâu lội tới lui nhiều lần mà thành, được vẹt trống cỏ và hơi sâu, lúc nước sắp giựt, bao nhiêu cá trên đồng đều rút xuống “đường câu” ấy; tới khi nước sắc sắp khô cạn người ta chỉ cần "đắp tàu" mà bắt cá. Nếu siêng năng và biết cách khai thác “đường câu”, cặp vợ chồng son cũng "sống được".
Một nét sinh hoạt thú vị khác là "vầy" hay còn gọi "chợ rổi". Đây là từ chỉ điểm hẹn quy ước của những người làm đìa “lòi cá”, tức chở cá vừa thu hoạch được đến nơi này bán cho “lái rổi”. "Vầy" ở đây có nghĩa là “chợ" - một dạng chợ chuyên canh mua cá ở giữa đồng, còn gọi “chợ rổi”.
Kể chuyện hồi nẳm ở Đồng Tháp Mười càng kể càng “ngây”, vì còn nhiều điều thú vị cho thấy sản vật phong phú và sự thông minh, thích ứng của người dân với cuộc sống...
NGUYỄN HỮU HIỆP